XẨM “SAY” 01: ĐÔI LỜI VỀ NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN XẨM
Hát Xẩm, loại ca nhạc truyền đời của những người mù loà đói nghèo ở Việt Nam. Xưa kia, về hát xẩm rất được dân lao động ở nông thôn và thành thị ưa thích. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, ở những tụ điểm dân cư đông đảo, người ta thường gặp từng tốp nhỏ, chồng xẩm theo vợ (hoặc con), dắt đi hát kiếm ăn. Xẩm quờ quạng kẹp nách cây đàn (bầu, nhị hoặc hồ), tay cầm khẩu trống mảnh; vợ xẩm cắp chiếc chiếu nát, giắt lưng đôi sênh cặp kè, tay cầm chiếc chậu thau bẹp, tay nắm đầu gậy dẫn chồng đi. Ban ngày họ lang thang tìm chỗ kiếm sống, khuya đến lại lần về cội cây, quán lều bỏ trống ngả lưng. Xẩm thường làm nghề cạnh những quán nước, cổng chợ, các bến tàu xe, các chuyến đò ngang, đò dọc; đặc biệt là những dịp hội hè đình đám nơi thôn xóm. Chọn được địa điểm ưng ý, xẩm trải chiếu, dạo nhạc, hát vài câu động khách. Chừng người đến đã đông đông, xẩm ướm hỏi khách thích nghe câu nào, điệu nào để đàn hát trúng ý thích của khách. Qua vài bài hát thử, vui có, buồn có, xẩm nhắc khéo khách “thướng dăm ba xu khuyến khích nhà nghề”. Hát dăm bảy bài mà vẫn chưa nghe tiếng tiền thưởng ném vào chậu, xem chừng khó khăn, xẩm lặng lẽ cuốn chiếu, bảo vợ con dắt đến nơi khác… Đôi khi gặp người cao hứng muốn nhờ xẩm hát để “tỏ tình bóng gió” với “ai” kia, hoặc có đám thanh niên kéo nhau ra dốc đê, gốc đa, đòi xẩm hát cho nghe những câu trao duyên hò hẹn, thì xẩm liền hào hứng đáp ứng, tạo thành đám hát vui vẻ nhộn nhạo. Gặp làng kéo hội mà có vài ba tốp xẩm cùng đến, thì chỉ thoáng chốc, họ đã kết hợp thành một đám rôm rả, đủ cả nhị, bầu, hồ, trống mảnh, cặp kè, có giọng nam (rè), giọng nữ, giọng trẻ con hát đồng thanh, lảnh lót nghe dễ thương. Xẩm sống cực khổ rách rưới, hằng ngày theo vợ con dắt đi đàn hát giúp vui mọi người kiếm miếng. Tuy bản thân bị tàn tật, song nhờ có chút năng khiếu nghệ thuật, Xẩm không cam phận ăn mày bố thí, mà cố đem tài riêng làm vui mọi người đổi lấy lưng cơm. Ban đầu, có thể Xẩm chỉ cốt lấy ăn sống qua ngày. Sau thấy được nhiều người trân trọng ưa thích, cám thương cảnh ngộ giúp đỡ thật tình, Xẩm dần tự hào về tài mình, về công việc mình làm, và càng chú ý trau dồi nghề nghiệp, tạo nên số ngón riêng, nét riêng ngày mỗi đậm đà. Xẩm hành nghề theo sinh hoạt thời vụ của đồng bào ở xã hội nông nghiệp: 3 tháng Xuân xẩm đi hát chúc các gia đình khá giả hoặc theo các đám hội làng; tháng 5, tháng 10 gặt hái, xẩm đi hát trên các chặng nghỉ, bến đò, bến xe, cổng chợ…; tháng Một, tháng Chạp xẩm đi theo các đò dọc bè xuôi, trên tàu xe đường dài…
Nghệ nhân tập hợp tổ chức nhau thành làng xẩm, hội xẩm theo đơn vị tỉnh, thành.
Đứng đầu làng, hội có các Bộ, phân ra Bộ nhất (trên 70 tuổi), Bộ nhì (trên 62 tuổi) và Bộ ba (trên 56 tuổi). Trực tiếp điều hành công việc của làng, hội là Trưởng nhất trong coi mọi việc chung, có Trưởng nhì, Trưởng ba giúp đỡ đôn đốc các tốp lớp nhỏ. Một thời, xẩm Hà Nội, rồi Hải Phòng đặt thêm lệ mua Trưởng. Danh vị Bộ thì là từ tuổi đời với trình độ nghề nghiệp và đạo đức nhất định. Nhưng “lên” chức Trưởng (thường gọi là Trùm) thì phải do làng hội bầu hai năm một lần, vào dịp giỗ Tổ, do các Tốp đề cử. Cũng đôi khi có nghệ nhân tự xin ứng cử. Tiêu chuẩn đòi ở người Trưởng là trình độ “đàn ngọt, hát chín”, làm ăn đứng đắn, đạo đức, giao tiếp tốt. Do phải giao thiệp với các quan đám nhiều nơi, cũng có phần do tư tưởng phong kiến hèm hẹp hòi, nhiều nữ nghệ nhân giỏi nghề được bà con nể vì mến chuộng mà vẫn không được làng hội bầu làm Trưởng nhất; như bà Trùm Nhớn ở Nam Định, đàn hát sắc sảo là thế mà chỉ được bầu là Trưởng ba; nữ xẩm Hai Thìn ở Sơn Tây tuy cả làng tín nhiệm cũng chỉ dám nhận chức Trưởng nhì, và nhường nhiệm vụ Trưởng nhất cho một nam nhân ít người tin cậy hơn. Trưởng bầu 2 năm một lần, vào kỳ giỗ Tổ đầu năm. Hết hạn không được bầu lại thì về làm Trưởng cựu. Do quan niệm để đàn em tập làm cho quen việc, do làm Trưởng phải quán xuyến nhiều việc của làng hội, mà có về làm Trưởng cựu vẫn được ưu tiên khi phân nơi hành nghề, nên ít nghệ nhân muốn làm Trưởng liền hai nhiệm kỳ. Vậy nhưng nghệ nhân nào cũng mong được bà con đề cử ra làm Trưởng. Vì đây vừa là chức vị cao nhất trong làng xẩm, hội xẩm, vừa là dịp mọi người nghề công nhận trình độ đàn hát và đạo đức của mình. Trưởng thường gọi là ông Trùm, bà Trùm có nhiệm vụ dàn xếp các cuộc tranh chấp làm ăn, chia khu hành nghề cho từng tốp, trợ giúp kẻ ốm yếu, bị tai nạn khi hành nghề, tổ chức họp làng vào các dịp tết nhất, tổ chức đánh giá các cuộc hát thờ mỗi lần giỗ Tổ, tổ chức dạy đàn hát cho con em các tốp… Các Trưởng được chu cấp theo mức cho phép đã thông qua hội làng. Làng Xẩm thường có khu đất riêng làm “trụ sở”, lấy chỗ họp thường kỳ. Thông thường là chỗ bãi đất hoang, ông bà Trùm vận động xin xỏ lý dịch sở tại “lờ” đi cho, rồi tập trung bà con các tốp dọn dẹp, dựng lều, làm nơi hội họp. Như Hội xẩm Hà Nội có trụ sở tại bãi Thuốc lá Yên – nhất . Hội xẩm Hải Phòng ở đầu xóm Cầu Đá; làng xẩm Nam Định ở cuối đường Goòng đầu phố Cổng hậu; làng xẩm Bắc Giang ở Thùng đấu,…
Các dịp lễ, giỗ
Hàng năm xuân thu hai lần, bà con làng xẩm, hội xẩm lại tập trung làm giỗ Tổ vào hạ tuần tháng Hai và hạ tuần tháng Tám âm lịch: Hà Nội lấy ngày 22 tổ chức lễ hội kéo đám trong vùng quy định, mà không phải do tục hèm nào của nghề xẩm chi phối: miễn sao đấy là mấy ngày rỗi rãi, nắng ráo. Lễ giỗ tuỳ nơi, tuỳ lúc tiến hành trong 3 ngày hoặc 2 ngày; năm nào làm ăn khó khăn chỉ tổ chức 1 ngày. Khi nào có điều kiện tổ chức “quy mô” đủ 3 ngày, thì ngày đầu tiên, gọi là “túc yết”, Ban điều hành phân công các tốp, cả vợ con nhà xẩm, lo dựng rạp, trang hoàng ban thờ, sắp xếp bàn ghế, chuẩn bị rượu chè hương hoa oản quả, trưa các tốp ăn cơm thường; tối đến đèn nhang để Bộ nhất hoặc Trưởng nhất áo khăn chỉnh tề khấn vái Thánh sư, có đông đảo nhà nghề và bà con dự bái cầu xin; tiếp làm hát thờ do số nghệ nhân “lành nghề” tấu nhạc và hát số bài “ruột” của ốp mình, có các Bộ, các Trưởng và bà con ngồi nghe, bình phẩm học tập. Ngày thứ hai gọi là “thường yết” thì làm lợn, đồ xôi với lễ vật hương đèn đầy đủ, thắp sáng liên tục; các Bộ, Trưởng, nghệ nhân luân lưu vào khấn vái; tối đến các tốp lại sân sưu nhau tấu nhạc và hát thờ. Ngày thứ ba là “chính yết” thì từ cuối giờ mão đầu giờ thìn có cuộc tế lễ long trọng: toàn thể nghệ nhân và bà con ăn mặc sạch sẽ túc trực ngồi nghiêm trước bàn thờ giữa đặt bài linh Trần Thánh sư, có đỉnh trầm nghi ngút xông hương, hai bên đặt đôi đèn hạc thắp sáng, đôi lọ hoa ngũ sắc cùng vật phẩm của làng, của các tốp, cả của các nhóm bên ngoài hành hương tạt qua. Có ý cho rằng vật phẩm càng nhiều càng chứng tỏ kết quả làm ăn của bà con, càng làm vui lòng Thánh sư, do đó sẽ được Thánh sư ban lộc đầy đủ. Ba hồi trống cái đĩnh đạc tế cáo Trời Đất, Thánh Thần, xua đuổi tà ma ngỗ nghịch và nhắc mọi người yên vị chú tâm. Bộ nhất ăn vận chững chạc, có 2 em nhỏ trợ giúp, bước vào, bắt theo tiếng nhạc hát cúng hương hoa (có khi hát cúng thêm đăng trà quả thực). Tiếp đến Trưởng nhất đan tay đưa cao ngang trán bước vào giữa chiếu hướng lên ban thờ bái lạy 3 lần, rồi thong thả xướng khấn bản văn nôm, có trống nhạc điểm câu phụ hoạ. Văn khấn của làng xẩm Hà Nội, do ông Trùm Nguyên đọc mấy năm nửa đầu thập niên 50 như sau: “Năm… tháng… ngày… Nhân ngày lành tháng tốt, Chúng đệ tử thuộc bản hội Trung ca (chỉ Hát Xẩm – TVN) ở Hà Nội tâm thành khẩn nguyện Trần Thánh sư lễ mọn gọi là… Kính thỉnh Thánh sư lai lâm chứng giám phù hộ độ trì anh chị em và bà con trong làng hội bền chân dẻo tay, đàn ngọt hát chín, đến đâu làm ăn đều được các đám xóm bến bãi cám thương, đón đỡ tận tình, để cháu con hành nghề suôn sẻ, ngày một phấn phát hanh thông. Cẩn cáo”. Khấn xong, chủ tế hóa văn, quỳ lạy 3 lần, đoạn đứng dậy bước lùi về mé phải, để đàn em lần lượt theo chức sắc và tuổi nghề bước lên khấn vái xin Tổ phù hộ ban lộc. Khi hành lễ, nhạc cử theo các điệu chính thống của nghề, vừa có ý tri ân Thánh sư, vừa gây không khí bằng âm hưởng loại hình. Những kẻ sáng mắt (như vợ con đi theo chồng, cha làm nghề) không phải hành lễ, tuy sau đó, vẫn có thể lễ bái khấn Tổ tuỳ tâm. Buổi trưa, mọi người cùng hưởng cỗ Làng, không phân biệt vợ con trong ngoài. Nghệ nhân nơi khác gặp ngày giỗ Tổ, có chè cau, chai rượu và hương hoa trình làng cũng được chung vui với mọi người. Buổi chiều, làng họp, dưới sự điều khiển của Trưởng Nhất để bà con, sau khi nghe Trưởng Nhì “báo cáo” tình hình, có nhận xét các việc trong làng thời gian qua, nêu lên những ưu điểm và những thiếu sót của Ban điều hành, góp ý giải quyết những vụ tranh giành điểm hát giữa các tốp nhà, thậm chí các vụ xô xát của xẩm nhà với xẩm tỉnh ngoài,… Hai lỗi bị coi là nặng nhất đối với nghề xẩm là tội thông gian giữa các tốp xẩm và tội ăn cắp chẳng kể giữa xẩm với nhau hoặc với dân xóm bên ngoài. Kẻ tái phạm có thể bị đuổi khỏi phạm vi hành nghề của làng. Buổi tối lễ tất, có hát thờ, song nghiêng về giáo dục nội bộ. Đêm này thường là do tốp của ông Trùm vừa được bầu đem ra phố tài có ý hầu Thánh xin Thánh ban lộc, song cũng muốn khoe với bè bạn tài nghề của mình. Đôi khi có tốp xin được hát hầu Thánh ngầm ý tự giới thiệu mức nghề với bà con, hy vọng năm sau ứng cử chức Trưởng sẽ được mọi người chấp thuận. Nghệ nhân xẩm rất coi trọng các cuộc hát thờ, không chỉ để nhà nghề tỏ lòng tri ân thánh sư, khoe tài trổ ngón với bạn nghề, mà còn là dịp hiếm quý cho mọi người học tập lẫn nhau bài hát mới, làn điệu mới, ngón đàn mới; từ đấy, trình độ nghề nghiệp ngày mỗi nâng cao, nội dung đề cập ngày mỗi mở rộng, ngõ hầu đáp ứng kịp ước muốn thưởng thức của người nghe, xem. (Trích: Tìm hiểu Nghệ thuật hát Xẩm, Biên soạn: Trần Việt Ngữ)