XẨM “SAY” 02: ĐÔI LỜI VỀ NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN XẨM
Về cơ cấu tổ chức và cung cách hành nghề, các làng hội xẩm từ Nghệ An, Thanh Hoá trở ra đều cơ bản giống nhau. Chưa nghe nói xẩm ở Huế họp thành “làng”, tuy nghệ nhân cũng có những tốp kiếm ăn “tự do”; họ có làn hát mang nhiều âm hưởng của ca Huế, hò Huế, gọi là xẩm Huế và điệu ba bực gần giống xẩm nhà trò; họ thường hát xen ca Huế cùng các điệu dân ca Trị Thiên,… Từ Quảng Nam trở vào, hay gặp những người mù loà đi hát rong, hát dạo với cây nhị, cặp sênh, thường dùng các loại dân ca bản địa như kể vè, hô thai, hát nhân ngãi,… Đôi người hát điệu hành khất mượn bên nhạc Tuồng… Ở Nam Bộ những người mù loà cũng đi hát rong lẻ tẻ, dùng nói thơ, nói lô tô, ca vọng cổ, ca nhạc tài tử, cả lý hò, với cây ghita, cây nhị kèm theo bộ tăng âm… Không thấy xẩm phía Nam hát số điệu xẩm thông dụng truyền thống ở phía Bắc, cũng chưa nghe nói trong đó có làng xẩm, hội xẩm.
Phải chăng việc tổ chức làng xẩm hội xẩm trước đây chỉ có ở mấy tỉnh phía Bắc?
Cách tổ chức nghề nghiệp ấy mang tính phường hội rõ rệt tuy có chịu một phần ảnh hưởng của cơ cấu hương đảng ở nông thôn đương thời, song vẫn nổi rõ tính cộng đồng dân chủ nhất định. Vấn đề đặt ra là liệu trong xã hội cũ, những người mù loà làm nghề xẩm không được học hành gì, không nhìn thấy thực tiễn mà chỉ cảm nhận xã hội trước mắt, mọi việc đi lại ăn ở đều phải nhờ vợ con dẫn dắt giúp đỡ, thì làm sao tự tìm nhau mà họp lại tổ chức thành làng, thành hội? Có thể chăng phong kiến thực dân thống trị đã sai người đứng ra tổ chức họ lại, vừa để khai thác hoạt động văn hoá của họ cho dẫu không bao nhiêu, vừa giải quyết một thực trạng xã hội không mấy “tốt đẹp” cho bộ mặt đương thời? Về loại hình, nghệ nhân tự đặt nghề hát xẩm vào hàng trung ca cùng dạng với hát chèo, và phân biệt hát tuồng thuộc hàng võ ca, ca trù thuộc hàng văn ca. Ông Trưởng Nguyên, ông Bộ Ngườn giải nghĩa: gọi xẩm là trung ca do nội dung các bài ca của nó nói nhiều đến lòng trung thực và đức hiếu nghĩa của con người. Các ông Trưởng Qưới, Trùn Khoản lại nghiêng về nghệ thuật, cho rằng vì xẩm không dùng hát múa và diễn xuất “mạnh mẽ” như bên tuồng, cũng như không dựa theo đàn hát để nhằm thưởng văn, khoe giọng như bên ca trù, mà trái lại, nó cố tạo nên số nét riêng, thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh sinh hoạt của lớp người mù loà có năng khiếu văn nghệ nhất định. Nghệ nhân xẩm ở các làng hội đều truyền tụng cho nhau sự tích về vị Thánh sư họ Trần, Tổ nghề. Truyện kể rằng; “Vua Trần Thánh Tông sinh được 2 hoàng tử, đặt tên là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Toán là anh, tính tình hung bạo, học hành biếng nhác, chỉ ham chơi lêu lổng. Đĩnh trái lại tính nết lành hiền, cần kiệm chăm chỉ, được Vua cha và mọi người yêu mến. Toán thấy vậy sinh đố kỵ, ganh ghét với em. Một hôm, 2 anh em vào rừng săn bắn, Đĩnh may mắn nhặt được viên ngọc. Toán nổi lòng tham, lấy dao chọc mù mắt em, đánh em chết ngất rồi đoạt ngọc đem về. Hắn tâu với vua cha là Đĩnh đã bị hổ lang ăn thịt và dâng cha viên ngọc quý”.
Sự tích về vị Thánh sư họ Trần, Tổ nghề
Nghệ nhân xẩm ở các làng hội đều truyền tụng cho nhau sự tích về vị Thánh sư họ Trần, Tổ nghề. Truyện kể rằng; “Vua Trần Thánh Tông sinh được 2 hoàng tử, đặt tên là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Toán là anh, tính tình hung bạo, học hành biếng nhác, chỉ ham chơi lêu lổng. Đĩnh trái lại tính nết lành hiền, cần kiệm chăm chỉ, được Vua cha và mọi người yêu mến. Toán thấy vậy sinh đố kỵ, ganh ghét với em. Một hôm, 2 anh em vào rừng săn bắn, Đĩnh may mắn nhặt được viên ngọc. Toán nổi lòng tham, lấy dao chọc mù mắt em, đánh em chết ngất rồi đoạt ngọc đem về. Hắn tâu với vua cha là Đĩnh đã bị hổ lang ăn thịt và dâng cha viên ngọc quý”. “Ở trong rừng, Đĩnh được những người đi kiếm củi cưu mang cứu chữa. Thời gian sau, chàng khoẻ lại, nhưng hai mắt không còn. Thấy rõ tâm địa anh, Đĩnh chán ngán, không muốn trở về cung. Rỗi rãi, chàng kiếm khúc song mây, đoạn cước, chế ra cây đàn và tự soạn những khúc hát làm vui mọi người chung quanh. Những câu hát, điệu nhạc ấy được xóm làng ưa thích, nhanh chóng lan truyền khắp nơi…” “ Ở kinh thành, Vua vi hành được nghe, lấy làm vừa lòng mới sai quân đòi người hát vào cung kể lại ngọn ngành. Biết ra, Vua cho tìm người đặt ra những khúc hát ấy về chầu để ban thưởng. Đĩnh về triều tâu vua cha đầu đuôi câu chuyện. Vua nổi giận, sai quân chém Toán, nhưng Đĩnh nhân từ, xin cha tha cho anh. Vua ưng thuận, giáng Toán xuống làm thứ dân, đuổi khỏi kinh thành. Song Toán vẫn không tu sửa tính nết, sinh trộm cắp, đi đâu cũng bị người người phỉ nhổ”. “Còn Đĩnh nhờ mài ngọc quý pha nước suối rửa mà 2 mắt sáng trở lại như xưa. Những người mù loà trong nước bảo nhau học tập các câu ca ngón đàn ấy, lấy làm nghề sinh sống và truyền cho người sau đời đời ghi ơn Thánh Tổ”. Các nghệ nhân cao tuổi ở làng hội xẩm Hà Nội và các tỉnh đều ghi nhớ và trân trọng kể lại truyền thuyết này, tựu trung căn bản giống nhau trên mấy điểm: xuất thân của Thánh Tổ, lý do Tổ bị mù mắt, nguồn gốc cây đàn xẩm (đàn song, đàn bầu), ngọc chữa sáng mắt… Không thấy sử sách nào chép lại chuyện Quốc Toán, Quốc Đĩnh như trên. Quả rằng vua Trần Thánh Tông có 2 con trai, nhưng sử ghi rõ tên Thái Tử Khảm, sau là vua Trần Nhân Tông, và một nữa là Tả Thiên Vương Đức Việp tư cách rất đáng kính. Đừng quên, nền ca nhạc đời Trần khá phát triển, nhiều vua quan chẳng những thích nghe nhạc, chơi nhạc mà còn không ít vị sáng tạo cả cây đàn, bài hát đời sau vẫn truyền tụng, như các vua Trần Thánh Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Dụ Tông…, các quan Trần Nhật Duật, Nguyễn Sỹ Cổ, Dư Nhuận Chỉ,… Đến mấy công chúa về địa phương hướng dẫn khai hoang lập trung áp, cũng sáng tạo điệu múa “lạ” cho mọi người chơi vui, như điệu múa Giáo cờ giáo quạt đứng chủ thể ở Hội làng Giằng (Thái Thụy, Thái Bình) ghi rõ do công chúa Quý Minh và công chùa Bảo Hoa, con gái vua Trần Anh Tông nghĩ ra, khả dĩ cho phép xuất hiện loại ca nhạc “riêng” cho những kẻ tàn tật đôi mắt? Dẫu sao câu chuyện về vị Tổ nghề xẩm cũng chứng minh (và tự hào, ở xã hội cũ) nguồn gốc và dòng dõi cao quý, rằng những câu ca ngón đàn của xẩm là rất hay, nảy sinh từ gan ruột và tâm linh con người đến vua chúa cũng thích nghe; đồng thời nó còn bộc lộ tinh thần lạc quan yêu đời của lớp người mù loà, cố vượt qua cảnh ngộ khó khăn mà ngoi lên kiếm sống bằng lao động nghệ thuật của chính mình, cùng động viên nhau yêu nghề, bảo vệ nghề và tin vào tiền đồ của nghề.